Professional Documents
Culture Documents
T p 2 – Những
Nh ng gì bạn
b n cần
c n biết
bi t
Mình đã từng chia sẻ Lightroom toàn tập tập 1 trước đây với những hướng dẫn cơ bản cho các
bạn mới làm quen Lightroom như mình. Hôm nay, mình xin mạn phép viết tiếp tập 2 với các
thông tin và kiến thức hữu ích khác cho các bạn khi đã quen với Lightroom. Mình cũng nói lại
do trình độ là newbie nên việc viết ra ebook này chỉ như hạt cát trong sa mạc, không thể so sánh
với các bạn đã biết rõ về Lightroom. Ok nói dông dài thế đủ rồi, mình sẽ bắt đầu ebook ngay đây
cho nóng.
• HiDPI support within the Library and Develop Modules. HiDPI provides support for
Retina-enabled Macs.
• Additional raw file support for 19 cameras including the Canon EOS 6D, Nikon D600
and Olympus PEN E-PL5
• Corrections and bug fixes for issues introduced in previous versions of Lightroom.
• HiDPI hỗ trợ cùng module Library và Develop. HiDPI cung cấp các trợ giúp cho màn
hình Retina của máy Macs. HiDPI là những điểm pixel cao với độ nét cực rõ giúp hình
ảnh hiển thị nét và đẹp trên màn hình Macs.
• Thêm việc hỗ trợ file RAW từ 19 máy ảnh bao gồm Canon EOS 6D, Nikon D600 và
Olympus PEN E-PL5
• Sửa chữa và vá lỗi cho các vấn đề ở bản trước
Các bạn đang xài Win 7 có thể update lên 4.3 nếu thấy cần hoặc tiếp tục xài bản cũ. Các bạn
Win XP thì khỏi quan tâm bản này vì bản 3.6 xài rất ok rồi.
http://dohoafx.com/forum/threads/download-lightroom-cc-final-cap-nhat-
ngay-1-9-2014.75909/
Xong bước khởi đầu, ngay bây giờ mình sẽ vào nội dung chính. Các bạn thường làm việc với
Lightroom nhưng chưa chắc gì đã biết hết những thứ ở trỏng – như mình. Vì thế, mình sẽ giới
thiệu cho các bạn sau đây những thủ thuật nhỏ nhưng đơn giản cho các bạn.
1. Bạn muốn xem lại hình trước khi chỉnh sửa và sau đó quay lại tấm hình đã chỉnh sửa trong
Develop. Chỉ cần nhấn phím / là xong.
3. Muốn nổi bật những hình ảnh bạn muốn xem trong Library, Ctrl + chọn những hình đó ->
nhấn L để làm tối màn hình trừ những hình đã chọn. Trong Develop cũng thế, nhấn L và chỉ có
hình đang chỉnh sửa còn sáng.
4. Bạn sẽ tự hỏi trong một thư mục hình đã nhập vào Catalog có bao nhiêu hình, bao gồm cả
những thư mục con thì hãy bật tính năng này lên. Menu Library -> Show photos in subfolders.
Khi đó thư mục cha sẽ hiển thị tổng số hình trong chính nó gồm cả thư mục con.
5. Nhấn J trong Develop để hiển thị các chi tiết bị mất trong hình khi đang chỉnh sửa. Màu đỏ là
chi tiết bị mất do quá sáng và màu xanh là do quá tối.
7. Muốn cân bằng trắng nhanh chóng. Hãy nhấn W và dùng icon picker để chọn điểm cân bằng
trắng ưng ý trên ảnh.
8. Trên Panel Navigator, bạn chỉ thấy một số tỉ lệ hiển thị như Fill, Fit, 1:1 hay 1:3. Muốn có thêm nhiều tỉ
lệ khác hãy nhấn vào mũi tên 2 chiều kế bên tỉ lệ 1:3.
Bạn đã biết cách tạo preset cho Develop. Giờ chúng ta sẽ tạo preset cho việc xuất ảnh. Vào
module Library -> chọn hình cần xuất -> Hộp thoại Export xuất hiện -> Bạn tuỳ chỉnh các thông
số xuất ảnh -> Khi đã xong, nhấn nút Add -> Nhập tên preset và thư mục lưu trữ -> Create và thế
là lần sau bạn chỉ cần chọn preset từ khung bên trái và nhấn Export, rất tiện lợi.
Catalog
Đây như một cơ sở dữ liệu lưu trữ hình ảnh mà bạn đã Import vào trong Lightroom. Bạn có thể
tạo nhiều Catalog nhưng mỗi lần chỉ làm việc được với 1. Tuỳ vào mục đích mà bạn tạo thêm
Catalog nhưng nếu không quá cần thiết thì chỉ nên có 1 hay 2 Catalog.
Folders
Khi bạn Import hình vào Lightroom, Folders sẽ như một cấu trúc vật lý khi hiển thị các thư mục
chứa hình ảnh bạn Import như dạng cây trong Explorer. Với Folders, bạn sẽ biết được hình nào
lưu trữ ở đâu, có đúng thư mục mình đã lưu không. Việc bạn thay đổi như xoá, dời thư mục bên
ngoài sẽ gây ảnh hưởng cho Folders trong Lightroom. Hình ảnh xem trước vẫn thấy nhưng khi
phóng to 1:1 thì sẽ báo lỗi.
Collections
Như cái tên, Collections là bộ sưu tập được phân loại nhằm giúp bạn tìm kiếm và sắp xếp hình
ảnh. Smart Collections nằm trong Collections như một danh sách nghe nhạc thông minh khi phân
Gộp Catalog
Sau định nghĩa mình sẽ giới thiệu các bạn cách gộp nhiều Catalog thành một. Thường thì các bạn
chỉ xài 1 Catalog mặc định nhưng với những người khác, họ có thể có nhiều Catalog. Đến một
ngày, họ muốn gộp các Catalog lại mà không biết làm sao. Thường thì Catalog được lưu dưới
dạng file .lrcat và nằm trong thư mục mặc định ban đầu. Nghĩ đơn giản, gộp Catalog là đem
chúng thành một và khi thành một thì tất cả hình ảnh từ các Catalog sẽ chung chỗ.
Ok nghĩ thế nào làm thế đấy. Trước hết tạo mới một Catalog là Catalog gộp.
Menu File New Catalog hộp thoại xuất hiện, bạn chọn chỗ lưu Catalog mới rồi đặt tên cho
Catalog Save.
Một điều hơi khó chịu là mỗi khi tạo 1 Catalog mới hay chuyển qua các Catalog với nhau,
Lightroom sẽ khởi động lại.
Menu File Import from Another Catalog hộp thoại xuất hiện, chọn file Catalog thứ nhất
(*.lrcat) Open.
Như vậy, Smart Collections là một collection lớn chứa các collection nhỏ hơn và vì thế biểu
tượng sẽ khác nhau. Giờ bạn hãy nhấn vào dấu cộng để mở menu làm việc.
Collection này cũng tương tự collection bình thường, không thể chứa các collection khác. Tuy
nhiên, nó cho phép ta đặt điều kiện để collection tự động sắp xếp ảnh vào trong nó.
Phù hợp với : any (bất kỳ), all (tất cả) hay none
(không ứng) với các điều kiện theo sau đây.
*** Bạn không thể xoá hình trong Smart Collection được ***
Created Collection Set: tạo một bộ Collection. Đây là collection có thể chứa các collection nhỏ
và bản thân nó có thể nằm trong một Collection Set khác.
Collection Set giúp ta phân loại ảnh theo nhu cầu sắp xếp như theo ngày tháng, theo mức độ
quan trọng hay theo độ đẹp xấu… với mỗi sự kiện ứng với một collection bên trong nó.
Khi tạo thêm một collection, kế bên tên panel Collections sẽ thêm dấu trừ dùng để xoá collection
đang chọn.
Nói về collection, mình sẽ nói đến Quick Collection. Quick Collection nằm trong panel Catalog
với mục đích chứa các hình ảnh mà bạn sẽ sử dụng trong thời gian ngắn, cho các dự án ngắn hạn.
Vậy làm sao thêm hình vào Quick Collection?
Tại module Library, dạng xem Grid (G) bạn có thể chuột phải và chọn Add to Quick Collection
hoặc vào menu Photo Add to Quick Collection (B). Menu Photo Add to Quick Collection
(B) còn có thể dùng trong module Develop khi chọn hình từ Filmstrip. Trong các module khác,
lệnh này nằm trong menu Edit.
Cách khác là khi rê một hình dưới Filmstrip, bạn sẽ thấy xuất hiện 1 vòng tròn. Nhấn vào là đã
thêm hình đó và Quick Collection, khi nhấn lần nữa là xoá hình đó khỏi Quick Collection.
** Để thấy được vòng tròn này thì bạn vào menu View View Options (Ctrl + J) Grid View
stick Quick Collection Markers ở mục Cell Icon**
Khi đã thêm vào ta có thể xoá hình ra Quick Collection bằng các cách nhu trên. Vào Quick
Collection, chọn hình cần xoá, menu Photo Remove from Quick Collection (B) hoặc nhấn
phím tắt tương tự là Backspace (). Muốn xoá hết hình ra khỏi Quick Collection, ta vào menu
Còn về lệnh Save Quick Collection bạn thấy ở trên thì lệnh này dùng để lưu Quick Collection thành một
Collection thật thụ trong panel Collections.
Khi chọn lệnh này, một hộp thoại yêu cầu đặt tên cho Collection mới lưu từ Quick Collection và hộp
thoại Clear Quick Collection After Saving (Xoá ảnh trong Quick Collection sau khi lưu xong).
Stack
Stack định nghĩa tiếng Anh là giá hay ngăn xếp. Như vậy trong Lightroom, chức năng stack chứa
một loạt ảnh cùng nhau và chỉ hiển thị 1 tấm đầu đại diện. Với chức năng này, hình ảnh sẽ gọn
gàng hơn cho ta làm việc và cũng đỡ sắp xếp hơn vì các hình chung chủ đề được gom lại.
Stack sẽ hiển thị dưới dạng 1 tấm hình đầu đại diện có số ở góc trái biểu thị cho số ảnh có trong
Stack.
Hình ban đầu nằm tràn lan và nhiều không thấy hết.
Sau khi Stack các hình theo từng nhóm thì giao diện nhìn dễ dàng và có khoa học
• Lưu ý: Stack chỉ thực hiện được với các file nằm chung thư mục.
Trước hết, ta sẽ làm việc trên panel Folder cho dễ vì Lưu ý ở trên. Vì thế, bạn không để
các hình ảnh không cùng chủ đề nằm khác thư mục. Chuyện sắp xếp từ trước sẽ giúp
Stack thuận lợi hơn.
3. Menu Photo Stacking Group into Stack (Ctrl+G). Cách khác là chuột phải hình
bất kỳ đã chọn, từ menu chọn Stacking Group into Stack.
Expand Stack/Collapse Stack (S): mở rộng /thu gọn Stack đang chọn
Expand All Stacks/Collapse All Stacks: mở rộng/thu gọn toàn bộ Stack trong Catalog
Move to Top of Stack (Shift+S): đưa ảnh lên đầu Stack. Lúc này ảnh này sẽ trở thành ảnh đại
diện cho Stack.
Move Up in Stack/Move Down in Stack (Shift+[ hay ]): đưa hình lên trước hoặc xuống sau
hình khác trong Stack.
Auto-Stack by Capture Time: tự động stack ảnh dựa vào thời gian ảnh được chụp.
Lệnh này hiệu quả cho bạn khi bạn chụp một loạt ảnh cùng chủ đề trong cùng thời gian hay chụp
ảnh để làm Panorama hoặc những ảnh để ghép HDR. Vì những ảnh này có khoảng thời gian
chụp cùng nhau và cách nhau một trị số tương đối.
• Các lệnh Remove from Stack, Split Stack, Move Down in Stack khi thực hiện trên Stack
thu gọn sẽ ảnh hưởng tới hình đầu tiên của Stack.
• Muốn làm việc với các ảnh khác, ta Expand Stack ra rồi chọn ảnh cần thao tác.
• Trong trạng thái Expand Stack, ta có thể dùng chuột kéo các ảnh để thay đổi vị trí trong
Stack.
• Ở Grid View trong Library, ta có thể thêm ảnh vào Stack bằng cách chọn và kéo giữ ảnh
rê đến Stack và bỏ chuột ra. Ảnh muốn bỏ vào Stack phải nằm chung thư mục với các
ảnh trong Stack.
• Nếu chọn 2 stack đảm bảo điều kiện chung một thư mục hình thì ta có thể chọn lệnh
Group into Stack. Khi đó chỉ duy nhất hình đại diện của stack 2 được đưa qua stack 1.
Đánh dấu hình ảnh qua Flag (cờ hiệu), Rating (xếp hạng) và
Label (nhãn)
Hình ảnh trong Catalog quá nhiều, bạn thường khó khăn khi phải tìm kiếm và sắp xếp
chúng. Lightroom đưa vào một vài thứ nhằm giúp bạn có thể giảm thiểu khó khăn đó. Đó
là Flag, Rating và Label. Mục đích của những thứ này là giúp bạn phân loại hình ảnh ra
từng nhóm rõ rệt và sẽ dễ dàng cho công việc. Giống như trường chia các học sinh vào
lớp học được đánh số lớp, xếp hạng thi đua…
Đầu tiên, ta cần đảm bảo những thứ trên xuất hiện trong giao diện nhìn của Library (ở
đây là Grid View). Vào menu View View Options (Ctrl + J) hộp thoại Library
View Options hiện ra thẻ Grid View.
• Top Label hoặc Bottom Label ở mục Compact Cell Extras chọn mục Rating and Label
(dành cho Compact Cells)
• Show Rating Footer ở mục Expanded Cell Extras gồm Include Color Label và
Include Rotation Buttons (dành cho Expanded Cells)
Flag
Flag chỉ có 3 dạng: Pick (chọn), Rejected (huỷ) và Unflagged (không được gắn cờ). Với Pick thì
biểu tượng là cờ trắng , Rejected là cờ đen dấu X và Unflagged thì không có biểu tượng.
Để gắn cờ hiệu dễ dàng, ta sẽ làm việc với giao diện Grid (G) trong module Library.
1. Chọn hình cần gắn (có thể chọn nhiều). Vào menu Photo Set Flag chọn 3 thuộc
tinh: Flagged (P), Unflagged (U) và Rejected (X).
• Toggle Flag (`): Thao tác với Flag. Ví dụ ảnh đang gắn flag Rejected thì sẽ đưa về Pick.
Từ Pick thì về Unflagged.
• Increase Flag Status (Ctrl+Up): tăng trạng thái flag. Từ Rejected Unflagged Pick.
• Decrease Flag Status (Ctrl+Down): giảm trạng thái flag. Từ Pick Unflagged
Rejected.
2. Cách khác để gắn flag là trong giao diện Grid, ở mỗi góc trái ảnh khi rê vào sẽ thấy
biểu tương cây cờ trong suốt . Nhấn vào để gắn Pick flag. Tuy nhiên, chỉ có thể
chuyển đổi qua lại 2 trạng thái Unflagged và Pick khi bấm vào biểu tượng trên. Muốn
có flag Rejected thì chuột phải vào biểu tượng sẽ thấy menu ba trạng thái của flag.
Painter
Nếu không thấy bạn click vào mũi tiên chỉ xuống bên góc phải thanh
Cuối cùng rê lọ sơn đến hình cần gắn flag và nhấn chuột trái. Thế là xong.
---Muốn xoá flag từ hình đã gắn bằng Painter, bạn chỉ cần giữ Alt khi chọn
Painter và con trỏ chuột sẽ thành biểu tượng cục tẩy. Tiếp tục giữ Alt và rê trỏ
chuột tới hình cần xoá bỏ rồi nhấn chuột trái. ---
Rating
Đây là chức năng xếp hạng ảnh dựa vào số sao với cao nhất là 5 sao và thấp nhất
là 0 sao. Việc xếp hạng giúp ta phân loại ảnh và có thể sắp xếp nhờ vào Smart
Collection. Để xài chức năng Rating, ta vào menu Photo Set Rating chọn từ
0 sao đến 5 sao (ứng với phím số từ 0 đến 5). Ngoài ra, 2 lệnh Decrease Rating ( [
) và Increase Rating ( ] ) để tăng giảm số sao đã thiết lập.
Bấm vào chấm tương ứng số sao mà bạn muốn thiết lập cho ảnh.
*** Nếu bạn không muốn rê qua ảnh mới xuất hiện các mục như Flag, Rating hay
Label thì có thể bỏ chọn mục Show clickable items on mouse over only ở View
Options. Khi đó các mục sẽ hiển thị ngay trên ảnh mà không mất đi khi rê chuột
ra. ***
Cách thứ ba là chuột phải vào ảnh và hiện ra menu thì chọn Set Rating chọn
như trong menu Photo ở cách đầu tiên.
Còn cách cuối cùng là dùng Painter như đã nói ở trên (xem hướng dẫn ở Flag)
Label
Ghi nhãn hình ảnh với một màu nhất định là một cách linh hoạt để nhanh chóng
đánh dấu một số lượng lớn các hình ảnh. Ví dụ, giả sử bạn vừa Import một số
Đầu tiên, bạn cần vào menu View View Options stick chọn Tint grid cells
with label colors.
Lựa chọn này giúp ô ảnh trong Grid có thể hiện màu như nhãn màu bạn gắn vào.
• Cách gắn nhãn mau cũng không khác mấy với Flag và Rating, menu Photo
Set Color Label chọn màu cho nhãn: Red, Yellow, Green, Blue
(ứng phím số từ 6 9) và Purple – còn None là không màu nào hết (xoá
bỏ nhãn).
• Cách thứ ba, rê chuột đến ảnh và sẽ thấy xuất hiện hình chữ nhật nhỏ
Bạn có thể thiết lập lại nhãn theo ý thích mình bằng cách trong module Library chọn menu
Metadata Color Label Set Edit.
Ở hộp thoại hiện ra, bạn sẽ set lại tên cho từng màu ứng với nội dung bạn mong muốn.
Nếu bạn muốn giữ tính tương thích cùng nhãn trong Adobe
Bridge, sử dụng cùng tên cho nhãn trong cả hai ứng dụng
Tại hộp thoại New Preset hiện ra, nhập tên trong mục Preset Name cuối cùng bấm Create để lưu lại
thiết lập.
Trong module Library, chế độ xem Grid thì cả ba tính năng trên đều năm ở thanh
Toolbar (thanh mà chúng ta xài Painter ấy).
Từ mũi tên chỉ xuống, bạn nhấn vào sẽ xuất hiện menu chọn những thứ bạn
cần từ menu ấy.
Ok xong chưa nào. Nếu xong thì hãy xoá những tấm mà được gắn mác Rejeted đi nhé.
Ây mấy bạn định xoá từng tấm sao. Không, hãy vào menu Photo Delete Rejected
Photos (Ctrl + ). Giờ thì chỉ việc đợi thôi.
2. Bạn có một đống hình vô tận. Bạn muốn lựa ra những tấm tốt nhất trong những tấm
đó, rồi bạn thấy có những tấm cũng đẹp và rồi lại thế. Dùng Rating lúc này là thích
hợp vì nó xếp hạng dựa trên số sao và với 5 sao thì việc lựa chọn là đa dạng. Những
tấm đẹp nhất sẽ được bạn chia sẻ, đẹp thì bạn sẽ giữ, ít đẹp hơn tí thì sẽ xem xét và
không đẹp thì để đó mốt xử.
Khi đã làm xong, sử dụng Smart Collection để phân loại chúng ra và thế là bạn có
được những gì bạn muốn.
Trước hết tạo Collection Set với tên tuỳ ý, nhớ chọn Top Level.
Sau đó tạo các Smart Collection với thuộc tính Rating, điều kiện là “is” và thông số
lần lượt từ 0 sao đi lên.
3. Bạn muốn phân loại hình ra theo các đề mục hình chụp cảnh, hình chụp người hay
hình gia đình rồi hình công ty. Chẳng lẽ xếp hạng bằng sao? Tốt hơn là dùng Label để
Xong xuôi, ta lại dùng Smart Collection để phân loại hình ảnh ra.
Nếu dùng label mặc định thì trong điều kiện chọn “Label Color”, dùng của mình tạo
thì chọn “Label Text”
4. Bạn có thể dùng cả 3 tính năng cùng lúc tuỳ vào nhu cầu và mục đích. Chẳng hạn
phân ra đề mục bằng Label, xong xếp hạng những ảnh đã qua phân loại theo đề mục
bằng Rating và cuối cùng là phân loại theo Flag. Tuy nhiên, chỉ có Rating và Label
được lưu trữ cùng ảnh trong Catalog, còn Flag thì không. Nghĩa là khi bạn sao chép
Catalog đi qua máy khác hay bạn cài lại máy và Import lại Catalog thì chỉ có Rating
cùng Label bạn thiết lập là còn; Flag thì sẽ biến mất. Như vậy, Flag phù hợp cho
những công việc ngắn và mì ăn liền hơn là lưu trữ dài lâu.
Quick Develop
Quick Develop là một chức năng hữu ích dành cho nhu cầu chỉnh sửa ảnh nhanh, không
quá cầu kỳ. Bạn đã chụp được bộ hình ưng ý với ánh sáng tốt và ít mắc lỗi, giờ đây bạn
chỉ cần chỉnh lại vài thứ nhỏ nhặt thì Quick Develop là một lựa chọn. Hoặc bạn đã có sẵn
những preset cần thiết và đơn giản là áp ngay vào hình thì Quick Develop là lựa chọn tối
ưu.
Từ ô bên trái bạn có thể chọn các preset bạn đã lưu bên module Develop và thế là hình sẽ được
áp preset vào ngay.
Có thể áp preset cho nhiều hình bằng cách chọn nhiều hình rồi chọn preset cần áp dụng.
Khi ở dạng đầy đủ rồi thì Quick Develop sẽ cung cấp cho bạn những thông số cơ bản để
bạn chỉnh như cân bằng trắng, tương phản, sáng – tối, độ nét…. Những thông số này
thích hợp cho nhu cầu retouch ảnh như mình đã nói ở trên cùng với việc lựa chọn nhiều
Nếu không hài lòng với các tinh chỉnh, bạnh có thể nhấn nút Reset All để đưa mọi thứ về
thời kỳ ban đầu chưa có gì.
Ngoài ra, Lightroom còn cung cấp sẵn các bộ preset mặc định trong danh sách cho người
dùng lựa chọn. Còn không bạn có thể chọn preset của riêng mình. Cách tạo và lưu preset
mình đã đề cập ở tập 1 của ebook.
Để tạo bản sao ảo, ta vào menu Photo Create Virtual Copies (Ctrl + ‘) hoặc chuột phải
vào ảnh và chọn lệnh tương tự từ menu.
Bạn có thể đặt bản sao ảo là ảnh gốc (nhưng chỉ là hiển thị, trên thực tế ảnh gốc vẫn giữ
nguyên trên ổ đĩa) bằng cách chọn bản sao ảo menu Photo Set Copy as Master.
Thường mình dùng bản sao ảo để so sánh hai phiên bản khác nhau của một bức ảnh. Và
đây là cách sử dụng mà đa số người thường dùng với bản sao ảo. Để hai bản sao gần
nhau, chọn bản sao đầu nhấn C để chuyển chế độ xem Compare hai bản sao sẽ
được so sánh với nhau.
Với một hệ thống tổ chức dựa trên thư mục, khả năng của bạn để tìm kiếm cho các
tập tin phụ thuộc vào khả năng của bạn để ghi nhớ cấu trúc thư mục của ổ đĩa cứng và
biết nơi mà tất cả mọi thứ được lưu trữ. Bất kỳ người nào chịu trách nhiệm cho việc
duy trì một kho lưu trữ hình ảnh lớn biết rằng phương pháp quản lý tập tin này nhanh
chóng trở nên khó sử dụng. Những gì bạn cần là một chương trình biên mục có thể
theo dõi của tất cả mọi thứ. Do đó, xu hướng là sử dụng quản lý tập tin siêu dữ liệu,
một chiến lược mà bạn tìm kiếm một tập tin bằng cách tìm kiếm các thuộc tính của
nó, chứ không phải cố gắng nhớ tên của thư mục mà bạn đặt tập tin.
Việc nhập thông tin cho siêu dữ liệu của ảnh sẽ có hiệu quả và lợi ích về sau. Chẳng
hạn như tìm kiếm ảnh trong một kho ảnh nhưng bạn chỉ nhớ nơi chụp hoặc ngày
chụp. Hoặc đơn giản, siêu dữ liệu này sẽ là bản quyền cho ảnh của chính bạn chụp.
Ở panel Metadata, kế bên tên panel chọn Default từ danh sách hiện ra (danh sách
này cho phép ta xem các thông tin trong siêu dữ liệu mà ta muốn xem)
Hộp thoại để ta khai báo cho preset xuất hiện, bạn điền các thông tin cần thiết muốn
làm siêu dữ liệu cho ảnh.
Muốn xoá preset đã tạo bạn vào lại mục Edit Preset chọn tên preset từ mục Preset
chọn lệnh Delete preset “tên preset”.
Sync Metadata
Sync Metadata là chức năng đồng bộ hoá siêu dữ liệu của các ảnh với nhau.
Hộp thoại Synchronize Metadata xuất hiện. bạn nhập các thông tin muốn đồng bộ giữa hai ảnh.
Nhấn Synchronize để đồng bộ metadat hai ảnh. Như vậy, các thông tin đặc trưng của hai ảnh
vẫn giữ nguyên, chỉ có các thông tin chưa có từ hai ảnh sẽ được đồng bộ.
Trước hết, ta chọn ảnh đã chỉnh sửa cùng một ảnh khác mà ta muốn như ảnh đã chỉnh
sửa.
Hộp thoại Synchronize Settings xuất hiện. Bạn chọn các thông số muốn đông bộ từ
ảnh chỉnh qua ảnh chưa chỉnh. Xong bạn nhấn nút Synchronize.
*** Bạn muốn bỏ thiết lập ra khỏi ảnh đã đồng bộ dùng nút Reset All trong panel
Quick Develop thế là xong. ***
Auto Sync
Ta có thể làm cho một ảnh tự động đồng bộ thiết lập với ảnh ta chọn bằng chức năng
Auto-Sync. Ta chọn hai ảnh muốn đồng bộ với nhau Để thấy được, ta cần chuyển
qua các chế độ xem khác Grid View. Vì thế, đơn giản hãy chuyển qua Loupe View
bằng phím E.
Ở chế độ Loupe View, bạn nhìn lại vị trí hai nút Sync dưới cùng bên phải sẽ thấy khác biệt khi
xem ở chế độ Grid View.
Bạn thấy một công tắc bên trái nút Sync chứ. Hãy bật nó lên trên bằng cách rê chuột đến công
tắc và nhấn 1 cái. Bạn sẽ thấy thay đổi ngay.
Vậy là xong. Từ nay, khi ta chọn một trong hai ảnh đã bật Auto Sync thì chỉnh sửa
metadata hoặc chỉnh sửa trong Develop sẽ tự động đồng bộ ảnh còn lại mà không cần
bạn chọn.
Bật Auto Sync một hình trong hai và hình kia cũng sẽ được bật.
Kết quả là khi bạn chỉnh ảnh kia thì ảnh kia cũng sẽ tự động thay đổi và ngược lại.
Alt
• Trong module Library, nhất giữ Alt sẽ làm hai nút Import và Export thành
Import Catalog và Export Catalg
• Trong module Slideshow, nhấn Alt sẽ làm nút Export PDF thành nút
Export JPEG. Thay vì xuất slideshow ra một ebook ảnh dạng PDF thì
Export JPEG lại xuất các khung ảnh ra dạng jpeg và để chúng cùng 1 thư
mục.
• Tronng panel Quick Develop của module Library, nhấn giữ Alt sẽ làm hai
giá trị Clarity và Vibrance thành Shaperning và Saturation.
• Trong panel Keywording thuộc module Library, mục Keyword Set, nhấn
giữ Alt sẽ hiển thị số ảnh ứng với các từ khoá trong bộ.
• Trong module Develop, nhấn giữ Alt sẽ làm nút Reset góc phải thành Set
Default…
• Trong module Develop, nhấn giữ Alt sẽ làm xuất hiện lệnh Reset tên mục
chỉnh sửa ở các Panel chỉnh sửa ảnh. (gồm Tone, Presence, Hue –
Saturation – Luminance, Highlights – Shadows trong Split Toning,
Sharpening và Noise Reduction, panel Lens Correction, panel Effect và
panel Camera Calibration). Ngoài ra, Graduated Filter và Adjustment
Brush cũng sẽ xuất hiện lệnh Reset.
Sau khi nhấn giữ xuất hiện thông báo kéo vùng chọn để phóng to
Resize ảnh
Nếu có nhu cầu resize ảnh hàng loạt thì Lightroom có thể giúp bạn việc này.
Trước hết, bạn Import những ảnh cần resize vào Lightroom. Nên để những ảnh
này chung thư mục thì lúc Import xong, ta sẽ làm việc trên panel Folder thì tiện và
dễ nhìn.
Tiếp đó ta chọn những toàn bộ ảnh này bằng phím Ctrl + A (chọn folder ảnh trong
panel Folder)
Nhấn nút Export hoặc menu File Export hoặc Ctrl + Shift + E.
Bạn khai báo các thông tin như nơi lưu ảnh, chất lượng ảnh, cách đặt tên…
Các thông số này bạn tuỳ ý điều chỉnh theo mục đích cá nhân.
Khai báo thiết lập định dạng, chất lượng ảnh (chọn theo hình)
Độ nét cho ảnh xuất ra (tuỳ theo nhu cầu mà chọn là Screen – dành cho lưu trữ
trên máy, Matte Paper và Glossy Paper – dành cho in ấn)
Mục này là nơi bạn resize ảnh. Stick ô Resize to Fit chọn từ danh sách các
dạng resize: Witdh & Height (theo dài, cao); Dimensions (theo độ phân giải);
Long Edge (cạnh dài); Short Edge (cạnh ngắn) và Megapixels nhập thông số
resize vào bên dưới stick ô Don’t Enlarge để giữ nguyên chi tiết ảnh chọn
mức độ hiển thị phân giải Resolution.
Khai báo đầy đủ rồi nhấn Export để Lightroom xuất ảnh. Nếu muốn sử dụng các
thông số này cho lần sau thì lưu preset (xem các thủ thuật nhỏ ở trang đầu)
Trong module Library, chọn ảnh muốn gán từ khoá và nhìn qua panel
Keywording bên phải.
Nhập từ khoá muốn tìm kiếm vào ô cuối cùng nhập nhiều từ khoá cũng được
Nhìn vào là bạn biết tìm kiếm sao rồi vì mình đã hướng dẫn cách gắn Flag, Rating
và Label cho ảnh. Thuộc tính Kind là tìm qua loại: Master Photos (ảnh gốc),
Virtual Copies (bản sao ảo) và Videos.
Bạn nhập từ khoá cơ bản bạn nghĩ đến dịch vụ liệt kê các ảnh theo từ khoá đó
bạn chọn ảnh gần giống ảnh bạn muốn đặt dịch vụ tự động lấy các từ khoá
từ ảnh bạn chọn và sắp xếp theo mức độ sử dụng 50 từ đầu tiên trong danh
sách được đánh dấu là có liên quan đến hình ảnh cuối cùng, bạn sẽ tạo được
danh sách từ khoá cần thiết cho ảnh của bạn.
http://arcurs.com/keywording/
Ví dụ minh hoạ
Theo mình, đây là một công cụ khá hay nhằm hỗ trợ bạn tìm ra từ khoá thích hợp cho ảnh. Ngay
trong giao diện kết quả, bạn có thể tuỳ biến các từ khoá được công cụ đánh dấu một cách dễ
dáng. Nếu bạn hay sử dụng từ khoá cho ảnh thì công cụ này nên được bạn quan tâm vì tính hữu
ích và nhanh chóng của nó.
Điều đầu tiên bạn sẽ muốn làm là để chọn kiểu đầu ra trong danh sách hồ sơ. Sẽ
có một tiêu chuẩn đã có trong danh sách này như sRGB và Adobe RGB, nhưng
bạn có thể chọn các tùy chọn khác và nó sẽ cho bạn bất cứ cấu hình máy in mà
bạn đã thiết lập trên máy tính của bạn.
Mục Intent cho phép ta lựa hai kiểu hiển thị là Perceptual và Relative
Perceptual: hiển thị các gam màu bị thừa ra, nhưng lại có thể thay đổi những gam
màu đủ trong ảnh.
Relative: hiển thị chính xác màu sắc, nhưng có thể làm mất các chi tiết nằm trong
gam màu dư.
Bạn có thể bắt đầu thực hiện bất kỳ điều chỉnh hình ảnh đặc biệt cho việc in ấn. Trước khi bạn
thực hiện điều chỉnh, bạn sẽ muốn nhấp chuột vào nút Create Proof Copy dưới biểu đồ. Điều
này sẽ tạo ra một bản sao ảo của hình ảnh, do đó bạn không làm thay đổi các tập tin chính nhưng
chỉ làm thay đổi tập tin này cho in ấn. Bạn cũng sẽ được yêu cầu nếu bạn muốn để tạo ra một bản
sao ảo một khi bạn làm bất kỳ thay đổi ảnh gốc trong khi ở chế độ này.
Bên trái là nút Show Monitor Gamut Warning với chức năng hiển thị gam màu
bị thiếu trên màn hình với màu xanh. Nhưng do mục đích chính là in ấn nên
chúng ta ít sử dụng nút này.
Từ đây bạn có thể điều chỉnh bất kỳ màu sắc của gam màu bằng cách sử dụng trình đơn HSL và
điều chỉnh màu sắc hay độ bão hòa cho đến khi nó sẽ nằm trong phạm vi mà máy in của bạn và
lựa chọn giấy có thể xử lý. Soft Proofing là một bổ sung tuyệt vời để Lightroom và sẽ giúp đỡ
bất cứ ai in để tiết kiệm giấy và mực in bằng cách in ảnh đã thực hiện ngay trong lần đầu tiên
Di chuyển Catalog từ nơi lưu trữ này sang nơi lưu trữ khác.
Vào menu Edit Catalog Settings thẻ General, nhìn mục Location để thấy nơi lưu catalog
hiện hành bấm Show
Bạn chỉ cần chép thư mục chứa catalog từ nơi lưu trữ cũ sang nơi lưu trữ mới. Vào thư mục chứa
catalog, double click vào file “tên catalog.lrcat” để mở catalog trong Lightroom là xong.
Điều này sẽ giúp Lightroom lưu trữ tất cả ảnh xem trước trong module Develop vào
trong thư mục đó. Khi làm việc, bạn sẽ di chuyển xuyên suốt hình ảnh mà không cần đợi
Lightroom xử lý. Bạn sẽ thấy ảnh thu nhỏ hiển thị ngay tức thì chứ không phải mất một
hoảng để các ảnh này rõ dần khi lướt qua toàn bộ ảnh. Nút Purge Cache sẽ giúp bạn xả
hết bộ nhớ tạm nếu bạn không còn nhu cầu sử dụng. Để biết cần bao nhiêu là đủ dung
lượng bộ nhớ tạm, bạn cần đếm số hình chụp x dung lượng trung bình 1 hình thêm
vào khoảng một tí theo bạn là đủ. Ví dụ: 500 tấm x 10 MB = 5000 MB = 5GB gõ vào
ô Maximum Size là 10 GB.
Đối với các màn hình lớn 22 inches hay có độ phân giải cao (1900x1200) thì bạn có thể
để các thông số ở mức cao nhất với Standard Preview Size = 2048px và Preview Quality
= High. Với các màn hình nhỏ hơn hay độ phân giải thấp hơn thì cac bạn nên chọn thông
99% các bạn nên hoàn toàn không có nhu cầu cho các tập tin XMP. Vì vậy, trong Tab Metadata
của Catalog Settings đảm bảo rằng "Automatically write changes into XMP" không được
chọn. Viết các tập tin XMP tăng gấp đôi số lượng công việc Lightroom có để thực hiện với tất cả
các hình ảnh được xử lý. Nếu bạn chỉ đơn giản là chỉnh sửa trong Lightroom, và sau đó xuất các
tập tin vào Photoshop thì hoàn toàn không có lý do gì để sử dụng XMPs.
Tương tự như vậy với ảnh xem trước 1:1 (mặc định Lightroom sẽ tạo ảnh thu nhỏ 1:1 nên
Build All với lệnh này). Ngoài ra, chọn Discard 1:1 Previews để xoá các ảnh thu nhỏ 1:1
nếu bạn không cần.
Bạn chọn ảnh sẽ thấy dòng thông báo bao nhiêu ảnh bạn chọn Build One để xử lý
những ảnh này. Không thì chọn Build All để xử lý tất cả.
7. Lại là Catalog
Catalog nên được bạn kiểm soát. Bạn không nên nhồi nhét quá nhiều ảnh vào 1 Catalog
vì như thế sẽ làm chậm tốc độ Lightroom khi làm việc với Catalog đó. Giới hạn 1
Catalog nên là 10 ngàn ảnh và nếu ít hơn số đó thì càng tốt. Bạn nên tạo thêm khoảng 1
đến 2 Catalog nữa nếu ảnh của bạn quá nhiều.
Làm nét thường là bước cuối cùng trong công đoạn xuất ảnh. Mình sẽ nói qua công đoạn
này trong module Develop, bạn phải xem ảnh ở chế độ 1:1 để thấy rõ kết quả của làm nét.
Khi ở chế độ xem bình thường ta không thể thấy sự khác biệt (trái là ảnh chưa làm nét và
phải là ảnh đã làm nét)
Nhưng khi xem ở tỉ lệ 1:1 (với Amout = 150 và Detail = 100) thì:
Như vậy, ta cũng thấy khi làm nét quá đà sẽ dẫn đến việc ảnh xuất hiện hạt. Vì thế, việc
làm nét cần có chừng mực và đi chung với giảm hạt. Làm nét trong Lightroom được
quyết định bởi 4 thanh trượt:
Masking: điều chỉnh lớp mặt nạ. Khi bạn đã thiết lập để 0 tất cả mọi thứ trong hình ảnh sẽ nhận
được cùng một lượng sắc nét. Nếu bạn đặt đến 100 độ sắc nét sẽ bị hạn chế đối với những khu
vực gần các cạnh nét nhất.
Masking = 18
Masking = 81
Làm nét ở ảnh khi bạn thấy một vài chi tiết có vẻ mờ hoặc chủ thể bị out-of-focus.
Đừng lạm dụng làm nét cho toàn bức ảnh vì có thể sẽ phá hỏng ảnh khi các chi
tiết bị rõ quá mức và hạt xuất hiện dày đặc. Việc làm nét không thể làm bức ảnh
rõ nhất như bạn tưởng nhưng nó sẽ cho ra một bức ảnh tốt hơn với các chi tiết sắc
sảo so với ban đầu. Nếu bạn làm nét để làm rõ tối đa chi tiết vì mục đích nào đó
và dẫn đến việc tạo ra hạt hay các chi tiết không đồng đều về độ sâu hãy dùng
Masking để cân bằng + Noise Reduction để giảm hạt lại trong mức bạn thấy
được.
Bạn hãy dùng chế độ xem so sánh để có thể tuỳ chỉnh tốt nhất các thông số làm
nét. So sánh sẽ cho bạn cái nhìn khách quan về ảnh gốc và ảnh đã làm nét sau
đó bạn có thể tuỳ chỉnh lại để được như ý muốn. Bạn có thể thử nhiều thông số
trên ảnh bằng chức năng Virtual Copies đã giới thiệu để đạt hiệu quả tốt nhất.
Bằng cách chỉnh sửa Hue, Saturation và Luminance theo màu sắc cá nhân bạn sẽ
kiểm soát nhiều hơn hình ảnh của bạn. Sau đây là một cách sử dụng mà có thể có
ích. Nếu bạn có một bầu trời hơi đơn điệu và muốn mang lại độ tương phản và chi
tiết vào bầu trời sử dụng Luminance và giảm nó xuống. Ở đây bạn có thể thấy
sự khác biệt trên bầu trời bằng cách đơn giản làm giảm thanh trượt độ sáng màu
xanh.
Chỉ làm giảm một ít Luminance (độ sáng) của màu xanh, bầu trời đã trở nên nét hơn.
Khi bạn muốn thay đổi màu sắc ở mảng màu khác đi ban đầu thì bạn sẽ dùng Hue. Ở tập 1 ebook
mình đã nói về dải màu trong Hue nên màu sẽ thay đổi theo dải màu này chứ không phải đổi từ
màu xanh thành màu đỏ lung tung được. Mục đích Hue mang lại là tạo một màu mới dựa trên dải
màu cùng màu ban đầu cho bạn một ảnh mới với không khí mới theo ý bạn muốn.
Snapshot quả thật lưu giữ khoảnh khắc, ở đây là các thiết lập với ảnh trong module Develop.
Khi bạn vừa thiết lập xong một thông số và thấy nó có vẻ được nhưng bạn vẫn muốn tiếp tục
điều chỉnh thì Snapshot sẽ giúp bạn. Khi đã có snapshot thì bạn cứ an tâm điều chỉnh tiếp và khi
không hài lòng thì cũng không sợ quên các thông số trước. Snapshot khác History là chỉ lưu trữ
thông số tại 1 thời điểm (tất cả), còn History là liệt kê một loạt các hành động đã thực hiện.
Ngay khi muốn lưu lại thông số thời điểm đó thì hãy nhấn dấu + ngay panel Snapshot. Một hộp
thoại cho bạn đặt tên Snapshot hiện lên, hãy đặt tên theo ý mình hơn là để mặc định (bạn nhìn
hình sẽ hiểu cái mặc định thế nào)
Copy Snapshot Settings to Before: khi bạn đã quậy đã và nhận ra chỉ các thông số tại lúc nào
đó mới hợp thì hãy chọn snapshot lúc ấy rồi chuột phải và chọn lệnh này. (phải ở chế độ xem
Compare (C) theo kiểu Before/After mới thấy lệnh thực thi)
Update with Current Settings: khi bạn chỉnh tiếp mà thấy cái sau ưng hơn cái trước thì thay vì
tạo thêm snapshot, ta cập nhập thông số mới cho snapshot cũ qua lệnh này.
Duyệt ảnh
Trong một kho hình đồ sộ việc duyệt ảnh là một điều khá là phê. Duyệt ảnh để tìm ảnh rồi xem
lại ảnh trong đống ảnh thì quả thật hơi khó khăn. Một vài thủ thuật sau đây dù chẳng là gì nhưng
có thể sẽ giúp ích cho bạn. Xem ảnh ở chế độ Grid View (G) để duyệt ảnh.
Dùng phím +/- sẽ giúp bạn phóng to/thu nhỏ hình ảnh xem trước . Điều này khá hữu ích khi bạn
không thấy rõ ảnh xem trước mặc định.
Dưới thanh Toolbar, hãy nhấn vào mũi tên xuống và chọn Navigate từ menu. Điều này cho phép
bạn sử dụng phím mũi tên / để lướt qua các ảnh xem trước.
So với Compact Cells, Expanded Cells cho phép hiển thị nhiều thông tin hơn và như thế đồng
nghĩa ta duyệt ảnh dễ dàng hơn. Để chuyển qua Expanded Cells nếu bạn đang ở Compact Cells
menu View View Options (Ctrl + J) tab Grid View ô stick Show Grid Extras đang
được chọn chọn ô bên phải là Expanded Cells.
Sự khác biệt thông tin của Compact Cells (trái) và Expanded Cells (phải)
Bạn có thể cho một thư mục hình bạn hay truy cập vào danh sách yêu thích và khi nào bạn muốn
xem hình trong thư mục thì chỉ cần chọn từ danh sách yêu thích. Để làm việc này, bạn truy cập
vào thư mục bạn muốn qua panel Folders. Chọn 1 hình trong thư mục rồi nhìn xuống dưới sẽ
thấy một thanh nằm ngay dưới thanh công cụ và trên vùng Filmstrip.
Bấm mũi tên kế bên tên ảnh. Chọn lệnh Add to Favorites từ menu.
Kết quả là khi bạn muốn truy cập thư mục yêu thích, hãy làm như trên và trong menu bạn sẽ
thấy:
Tiếp theo, hãy giữ phím Ctrl, nhấn một điểm trên ảnh và kéo bạn sẽ thấy một đường thẳng
xoay đường thẳng theo hướng bạn muốn để ảnh trở nên thẳng bình thường (vẫn giữ Ctrl)
Khi bấm giữ Ctrl bạn sẽ thấy xuất hiện một biểu tượng như thế này . Nếu để ý bạn sẽ thấy
nó trong panel Crop Overlay, mục Angle. Vậy hai cái là một chứ chẳng xa xôi gì. Nếu để chuột
vào biểu tượng này ở mục Angle sẽ thấy dòng “Straighten Tool” (công cụ làm thẳng).
Vị trí chủ thể thường là vấn đề chúng ta quan tâm. Vị trí chủ thể sẽ làm cho ảnh trở nên ấn tượng
hay không cũng nhu nói lên ý muốn người chụp hay không. Đối với mình, một newbie thì quả
thật vị trí quả là khó khăn. Nếu ở trung tâm ảnh thì chủ thể sẽ được chú ý ngay nhưng vị trí này
chỉ hiệu quả khi ảnh có tính đối xứng cao, còn với các ảnh bình thường thì không.
Tỉ lệ ảnh 2:1 khi crop sẽ tạo một góc nhìn rộng hơn và như thế chủ thể sẽ có một hướng nhìn tập
trung từ con mắt tốt hơn.
Nền tối và out-of-focus sẽ làm chủ thể được chú ý nhiều hơn vì mắt ta sẽ bị hướng vào nơi rõ và
sáng nhất.
Nói sơ thế để chúng ta cùng làm 1 ảnh trở nên khác lạ với Crop và Vignetting.
Ở đây là 2:1 (nếu không phù hợp thì bạn nhập tỉ lệ khác)
Kết quả:
Style:
• Highlight Priority: sẽ phục hồi vùng sáng, nhưng nó có thể có một sự thay
đổi màu sắc trong các vùng tối của một bức ảnh. Kiểu này hoạt động tốt
với các khu vực hình ảnh tươi sáng mà bạn muốn làm tối.
• Color Priority: sẽ giảm thiểu thay đổi màu sắc trong khu vực tối, nhưng sẽ
không giúp đỡ với những vùng sáng nổi bật như phong cách trên.
Bạn có thể hoàn toàn kết hợp cả hai cách trên để làm tối góc ảnh
Sau khi điều chỉnh thông số phù hợp ta sẽ được kết quả như sau:
Giờ ta chỉ còn sử dụng Adjustment Brush (K) để tăng độ tương phản giữa chủ thể và nền.
Với cả hai Effect ta có thể tuỳ chỉnh lại độ phơi sáng Exposure cho phù
hợp ảnh của bạn. Nếu nền bạn out-of-focus mới chỉnh hai thông số Clarity
và Sharpness là -100, nếu không thì không nên chỉnh hoặc chỉnh vừa phải.
Khi dùng brush tô ta hãy chọn ô Show Selected Mask Overlay ngay dưới
chỗ ảnh đang làm việc để hiện vùng tô.
Kết quả:
Menu Edit Invert Selection: đảo lại việc chọn ảnh. Những tấm bạn đang chọn sẽ trở thành
chưa chọn và những tấm chưa chọn lại được chọn.
Module Library, menu Library Find Missing Photos: những tấm hình bị mất do sai link ,bị
xoá ngoài ổ cứng vật lý sẽ được lọc ra từ Catalog.
Module Library, menu Library Synchronize Folder: đồng bộ hoá thư mục bạn chọn với
Catalog. Với lệnh này, ảnh mới trong thư mục sẽ được cập nhập vào Catalog; ảnh bị chết sẽ được
xoá khỏi Catalog và thông tin ảnh sẽ được cập nhật. Lệnh này thật sự hữu ích cho bạn khi chép
thêm hình vào thư mục lưu trữ.
Module Library, menu Metadata Purge Unused Keywords: lệnh này sẽ xoá các từ khoá
không được sử dụng, điều này sẽ giúp gọn danh sách từ khoá ta đang làm việc.
Module Library, menu View Enable Mirror Image Mode: lệnh này sẽ kích hoạt chức năng
ảnh phản chiếu và các ảnh sẽ ngược lại như soi vào gương so với ban đầu.
Menu Help System Info: lệnh này cho phép bạn xem thông tin hệt thống rõ ràng đến không
ngờ. Ngoài ra, nó còn hiển thị mức độ sử dụng bộ nhớ của Lightroom khi đang làm việc. Lệnh
này quả thật khá kỳ lạ khi mình mở lên. ^^
Module Library của Grid Xem và Loupe View có thể được tùy chỉnh để hiển thị hoặc ẩn thông
tin hình ảnh bằng cách sử dụng các tùy chọn trong View Options. Đây là một cách tuyệt vời để
làm trống không gian làm việc của bạn chỉ đơn giản là lựa chọn số lượng thông tin hình ảnh mà
bạn muốn xem, trong khi giấu phần còn lại. Điều này đặc biệt hữu ích với các ô hình ảnh trong
Grid View, có thể khá rối nếu bạn có quá nhiều thông tin nhồi nhét vào mỗi ô. Dưới đây là
những lời khuyên để giúp bạn có một không gian làm việc trống hơn.
• Nếu bạn thích để ẩn tất cả các thông tin hình ảnh trong Grid View hoặc Loupe View, bạn
có thể biến tất cả trong View Options. Điều này rất hữu ích nếu bạn chỉ muốn xem những
hình ảnh mà không có bất kỳ phiền nhiễu.
Để truy cập vào View Options, bạn có thể sử dụng phím tắt (Ctrl + J) hoặc bấm vào
Menu View và chọn View Options.
• Dưới tab Grid View, nếu bạn bỏ chọn Show Grid Extras, Lightroom sẽ chỉ hiển thị hình
thu nhỏ hình ảnh trong Grid View. Tất cả các thông tin hình ảnh bên trong mỗi ô hình
ảnh sẽ được ẩn.
Khi bạn đang xem hình ảnh của bạn trong Grid View, bạn cũng có thể chuyển đổi giữa
hiển thị và ẩn các thông tin di động bằng cách nhấn phím "J" trên bàn phím.
• Tương tự như vậy, nếu bạn bỏ chọn tùy chọn Show Info Overlay dưới tab Loupe View,
bạn sẽ thấy các hình ảnh trong Loupe View mà không có bất kỳ thông tin nào. Bạn cũng
có thể chuyển giữa No Info Overlay, Info 1, và Info 2 bằng cách nhấn "I" trên bàn phím.
Trước tiên, hãy bỏ chọnShow Grid Extras. Sau đó, hãy stick vào ô Show image info
tooltips.
Nếu bạn chọn để hiển thị các biểu tượng hình ảnh di động thể nhấp vào trong Grid View, bạn có
thể sử dụng các thiết lập sau đây để chỉ hiển thị các biểu tượng cho hình ảnh bạn khi có chuột rê
vào. Trong mục giống như trong tùy chọn tooltips, stick vào ô Show clickable items on mouse
over only.
• Thay vì sử dụng Flags và xếp hạng, bạn có thể chỉ sử dụng Color Labels để tổ chức và
xoá hình ảnh của bạn trong Grid View. Theo mặc định, Lightroom đã có làm chức năng
làm nổi màu với màu sắc nhãn đặt cho ảnh. Bạn có thể tìm thấy tùy chọn này trong phần
Option của Grid View. Bằng cách sử dụng phương pháp này, bạn có thể đưa ra phương
pháp màu sắc riêng của bạn trong công việc, cho phép bạn nhanh chóng lướt qua các hình
thu nhỏ để xem trạng thái của hình ảnh đó.
• Sự khác biệt chính giữa hai loại ô hình ảnh là số lượng thông tin mà có thể được hiển thị
bên trong mỗi ô. Expanded Cell có thể hiển thị lên đến bốn biến thông tin trên hai dòng
trong tiêu đề ô, trong khi Compact Cell chỉ hiển thị một dòng thông tin ở trên cùng của
hình ảnh.
Nếu bạn chỉ cần một số lượng tối thiểu của các thông tin, chẳng hạn như tốc độ màn trập
và khẩu độ, Compact Cell có thể là lựa chọn tốt hơn giữa hai bởi vì nó chiếm ít diện tích
hơn Expanded Cell.
• Chuột phải vào mũi tên ẩn/hiện panel, filmstrip hay module picker và chọn như hình:
Auto Hide & Show: tự động ẩn khi bạn rê chuột ra khỏi và hiện khi bạn rê chuột vào (bạn cần ẩn
panel để thấy kết quả)
Sync with Opposite Panel: đồng bộ với panel đối diện bạn ẩn panel bên trái thì bên phải cũng
ẩn (tương tự cho cặp module picker trên – filmstrip dưới)
• Phím Tab để ẩn hiện Panel nhanh chóng nếu bạn không muốn làm như trên. Không áp
dụng cho thanh module picker và filmstrip.
• Ẩn những Module không cần thiết bằng cách chuột phải vào thanh Module picker và bỏ
chọn những module không cần thiết.
F5
F7 F8
F6
Bạn có thể Import ảnh vào thư mục hay xuất thư mục ra Catalog nếu thư mục có quá nhiề ảnh
qua menu chuột phải. Đây là hai lệnh hữu ích cho việc quản lý hình ảnh.
Ngoài ra, các lệnh Synchronize Folder hay Update Folder Location sẽ giúp thư mục luôn được
Lightroom cập nhập và hiển thị đúng đường dẫn. Với các lệnh này bạn sẽ tiết kiệm được thời
gian khi làm việc.
Ảnh đen trắng là một loại ảnh tạo độ tương phản cao giữa hai mảng màu, hai mảng sáng tối.
Trong Lightroom, việc biến ảnh màu thành trắng đen rất đơn giản nhưng ảnh có vẻ trông đơn
điệu và bình thường.
Mình sẽ hướng dẫn các bạn làm ảnh đen trắng trông có chiều sâu, độ tương phản và ấn tượng
hơn.
1. Chọn hình cần làm ảnh đen trắng. Ở đây mình chọn hình này.
2. Biến ảnh của bạn thành ảnh trắng đen bằng cách chọn B&W ở panel
HSL/Color/B&W
Mình sẽ làm tối bầu trời bằng để trỏ chuột vào vùng trời và kéo xuống. Ở những rặng núi tối,
mình làm tương tự. Với chỗ rặng núi sáng, mình kéo lên và cân bằng sao cho chỗ rặng núi tối đủ
tối (vì rặng núi chung màu). Với dòng nước mình kéo lên.
4. Sau khi xong, ta cân chỉnh Contrast, ánh sáng và vài thứ khác ở panel Basic. Chỉnh
thêm panel Detail nếu bạn muốn làm nét ảnh
5. Dùng Graduated Filter (M) làm tối nền trời lại một tí với thông số Exposure = -0.5.
Bạn có thể tuỳ chỉnh thông số tuỳ vào ảnh của bạn.
Vùng sáng
Vùng tối
Những mũi tên đỏ và vòng đỏ là vùng sáng mình sẽ tô và màu xanh là vùng tối mình sẽ
tô.
Việc tô brush hoàn toàn phụ thuộc vào bạn, bạn muốn chỗ nào tối hơn hay nét hơn hay
sáng hơn là tuỳ do bạn. Bạn có thể tô nhiều brush chứ không có giới hạn. Ở đây, mình
hướng dẫn sơ qua nên chỉ dùng 2 brush sáng – tối để làm nổi bật hai vùng này.
1. Chúng ta cần có ảnh nhé. Ảnh phù hợp với phong cách này là chủ thể phải tối hơn
nền và càng ít vật càng tốt. Ở đây mình dùng ảnh này.
4. Giảm Clarity để ảnh mờ ảo chút nhằm giả ống lens chất lượng thấp của phong cách
film retro.
1. Bạn cần có ảnh để đóng khung. Ở đây mình sẽ dùng ảnh ở trên là ảnh theo phong
cách film retro để đóng khung.
2. Panel Effects mục Post-Crop Vignetting. Chỉnh như hình và xem kết quả nhé:
Amount = -100: làm tối hoàn toàn khung ta được màu đen (100 thì được màu trắng và
các thông số khác sẽ cho màu khác nhau dựa trên nền ảnh)
Midpoint = -100: tạo được khung để ta thấy
Roundness: -100: tạo khung bo tròn và độ dày khung (tăng lên thì khung sẽ dày hơn, góc
bo tròn sẽ tròn hơn cho đến khi 100 là thành hình tròn)
Feather = 0: tăng chỉ số lên sẽ làm rìa trong khung mềm hơn
Highlights: không đụng đến
Kết quả:
B1: Chúng ta cần ảnh để fake. Bạn dùng ảnh nào bạn thích fake, Import vào Catalog. Ở đây
mình dùng ảnh này.
B2: Bây giờ bạn vào Develop -> chọn công cụ Graduated Filter (phím tắt M)
Trong Lightroom không có chức năng Blur đa dạng như Pts nên ta sẽ tạo ra độ mờ bằng cách hạ
thấp hai giá trị quyết định độ chi tiết là Clarity và Sharpness.
Bấm M hai lần, kéo từ dưới lên đê tạo vùng mờ phía dưới. Khi đã ưng ý, bấm Done.
B4: Bạn có thể tăng độ mờ cho vùng mờ đã tạo bằng cách thêm vùng mờ đè lên trên. Sau đó, bạn
có thể tuỳ chỉnh màu sắc cho ảnh. Ở đây, mình tăng Contrast + Vibrance và Saturation.
1. Ảnh chụp mây đâu, bạn phải lôi ra nhé. Mình dùng ảnh này:
2. Dùng Split Toning nào. Để làm gì nhỉ? Đương nhiên là phục hồi tuổi xanh cho mây
rồi.
Bạn muốn mây màu gì thì chỉnh Hue màu đó tăng giảm Saturation cho màu sắc phù hợp
Balance để cân bằng lại màu sắc tổng thể.
1. Ảnh đồ ăn bạn chụp. Mình lấy ảnh này, chụp xôi gà trước khi ăn:
Clarity ta hạ thấp tí thôi để cải thiện tông màu đồ ăn, nhìn đồ ăn mịn như da. Ánh sáng xung
quanh đồ ăn cũng dịu đi, giúp ta chú ý đến đồ ăn.
Vibrance hạ thấp đến khi nào thấy dĩa trắng trung hoà. Dĩa trắng sẽ làm đồ ăn nổi bật hơn.
3. Thêm màu đỏ vào đồ ăn vì đơn giản lý thuyết có nói màu đỏ kích thích vị giác và tạo
cảm giác ấm cúng.
Cải thiện ảnh chụp các công trình cổ (đền, nhà thờ, chùa chiền,
di tích…)
Các công trinh này đều có vẻ gì đó đặc sắc nên chúng ta cần lột tả sự đặc sắc đó. Nếu bạn
chụp ảnh chùa chiền, nhà thờ… thì bạn sẽ muố nó nhìn trông thật sự ấn tượng như bề
ngoài của nó. Mình sẽ hướng dẫn các bạn làm điều đó.
1. Mình sẽ lấy ảnh này để làm. Ảnh này mình dùng Google kiếm vì nhà không cho chụp
cảnh chùa chiền. ^^
*** Cách này hoàn toàn khác với việc ẩn module khỏi thanh module picker nhé. Ẩn
nhưng khi nạp vẫn nạp các module đó, còn đây là không cho chúng khởi động cùng
Lightroom ***
1. Vào nơi cài đặt Lightroom. Ở đây, mình vào C:\Program Files\Adobe\Adobe
Lightroom “phiên bản Lightroom”
2. Trong thư mục này, bạn bấm Type để Windows Explorer sắp xếp file theo loại. Ta sẽ
thấy nhóm module với định dạng “tên module.lrmodule”.
3. Tạo thư mục với tên tuỳ ý. Ở đây mình đặt “Unused Module”
5. Khởi động Lightroom và tận hưởng thành quả. Lúc này thanh module picker chỉ còn
lại hai module là Library và Develop. Giờ bạn có chuột phải vào thanh module picker
cũng chỉ thấy như hình.
6. Kết quả thử nghiệm trên máy mình với cấu hình:
Ram: 2GB
Trong Lightroom, có sẵn các thư mục preset mặc định cùng thư mục User Presets cho
chúng ta lưu các preset tự tạo.
Để sắp xếp preset ta sẽ không làm trong preset mà làm ngoài Windows Explorer.
2. Trong đây, mình hoàn toàn có thể di chuyển các preset giữa các thư mục, đổi tên
preset và cả thư mục chứa preset.
Chúng ta sẽ đổi tên thư mục chứa preset sao cho thể hiện mức độ sử dụng hay quan trọng
bằng cách thêm tiền tố là số vào trước tên. Ở đây, ta cũng có thể đổi tên được thư mục
User Presets (trong Lightroom thì không làm được)
3. Đặt tên lại các preset theo màu sắc preset thể hiện, theo phương thức chỉnh sửa, nói
chung là preset phải bật lên nội dung trong nó. Ta cũng có thể thêm số trước các
preset quan trọng.
4. Gom các preset yêu thích hay thường dùng vào một thư mục.
1. Ảnh chụp nào bạn muốn lên màu. Ở đây mình dùng ảnh này:
Mình làm tối các phần sáng và các phần bóng của ảnh để ảnh lên màu. Tăng Clarity để
tăng chi tiết ảnh và màu sắc. Vibrance sẽ làm màu trông đậm hơn.
3. Làm nét ảnh và khử hạt qua panel Detail. Bước này bạn tuỳ chỉnh sao cho ảnh cân
bằng giữa nét và độ nhiễu hạt.
5. Dùng công cụ Graduated Filter (M) để làm nổi vùng ánh sáng ở dưới và vùng trời ở
trên.
Với vùng toà nhà dưới, bạn chỉnh như hình và kéo lên ngay đỉnh toà nhà trắng.
1. Bạn mở ảnh cần chỉnh lên và vào module Develop. Mình dùng ảnh này:
2. Mình sẽ Crop ảnh theo tỉ lệ 2:1. Bạn chọn công cụ Crop hay phím tắt R để vào trình
đơn Crop. Chọn từ Aspect là Enter Custom nhập tỉ lệ 2:1 vào.
4. Tiếp đó minh sẽ dùng Graduated Filter (M) để làm tối một chút hai vùng trên và dưới
chủ thể nhàm hướng ánh sáng vào phần giữa ảnh là nơi chủ thể đứng.
Ta sẽ tô toàn bộ nền trừ chủ thể người, mục đích làm nền tối và đậm màu khiến bật lên chủ thể.
Tiếp tục tô mới với cọ mới và thiếp lập mới, lần này là tô lên chủ thể.
Làm ảnh trở nên tươi sáng với phong cách Ethereal Look (cái
nhìn thanh khiết)
Trước hết, ảnh theo phong cách này sẽ xu hướng sáng vì thế khuyến cáo ảnh nhiều sáng
hay dư sáng thì không nên thử ảnh sẽ sáng loà + mất chi tiết. Ảnh với độ sáng vừa
phải hoặc trong môi trường trắng với ánh sáng yếu có thể đạt kết quả với phong cách này.
Trong hướng dẫn này, chúng ta sẽ xài Photoshop để tạo lớp ánh sáng ảo ảo cho ảnh. Nếu
không có Photoshop, bạn có thể dùng Lightroom để tạo lớp ánh sáng tuy nhiên hiệu quả
sẽ không như mong muốn.
Ảnh sẽ trông lạnh như băng với lớp sương ám nhìn ghê ghê. Nhưng đây là cái thanh khiết ta cần.
4. Vì bức ảnh đã bị làm cho mờ ảo nên ta cần làm nét tổng thể toàn ảnh panel Detail
Shaperning và chỉnh theo hình:
5. Giờ ta sẽ làm cho người lấy lại cái gì đó ấm áp bằng Adjustment Brush (K). Chỉnh
theo hình và tô lên da + tóc.
7. Dùng Adjustment Brush với Exposure = - 0.05 để tô lên vùng bóng xung quanh chân
mẫu. Điều này sẽ làm tối phần bóng dưới, làm nổi chân của chủ thể lên.
Dulicate Layer Background (Ctrl + J) đổi tên là Glow (hay gì cũng được).
15. Ta sẽ thêm viền sáng cho ảnh qua panel Lens Correction Manual Lens
Vignetting.
16. Từ bước 13 bước 15, mình đã tạo preset tên Ethereal Look trong bộ preset của
mình chia sẻ vào cuối ebook. Các bạn chỉ cần Import hình sau khi chỉnh bằng
Photoshop vào và chọn preset từ panel Presets.
17. Thêm Graduated Filter với Sharpness = -100 để kéo hai bên mờ tí, hướng sự tập trung
vào người mẫu. Nếu thích ánh sáng kì diệu, lung linh thì kéo thêm Clarity = -100.
19. Bạn có thể chuyển ảnh kết quả qua ảnh đen trắng, nhìn cũng khá hay. Chọn ảnh và
nhấn phím V để chuyển ảnh qua ảnh trắng đen. Chỉnh lại ánh sáng và độ tương phản.
1. Bắt đầu bằng cách mở một hình ảnh trong Lightroom. Lưu ý rằng hiệu ứng này chỉ
hoạt động trên hình ảnh với một dải màu và ánh sáng tốt. Vì vậy, hình ảnh ngoài trời
nắng của bạn sẽ làm việc tốt hơn so với các bức ảnh trong nhà chụp với ISO cao.
2. Bắt đầu bằng cách giảm độ phơi sáng để bạn có thể thấy hầu hết các chi tiết trong các
vùng sáng của hình ảnh của bạn. Bạn có thể không phải lúc nào cũng có thể giảm đến
-5 tùy thuộc vào ảnh của bạn.
Nó trông khá tối, nhưng vì mục đích chính của việc này là để có được hầu hết các chi tiết
từ những điểm sáng trong ảnh.
4. Nếu bạn muốn phục hồi nhiều chi tiết hơn trong vùng sáng, bạn có thể tăng thiết lập
Highlights. Lưu ý rằng thiết lập này có thể làm cho các phần của hình ảnh của bạn
xuất hiện trong màu xám tùy thuộc vào hình ảnh của bạn.
5. Công cụ này cho phép bạn điều chỉnh hình ảnh của bạn hơn nữa. Các cài đặt bạn áp
dụng ở đây sẽ khác nhau tùy thuộc vào ảnh của bạn
Clarity = 100
Clarity = 30
1. Tab General
Nếu thật sự bạn cần Lightroom thông báo phiên bản mới thì hãy stick hai ô này. Nếu
không thì bỏ chọn. Và mình khuyên là nên bỏ chọn vì chúng ta đa số xài bản lậu thì việc
thông báo chỉ làm tăng thêm thời gian khởi động ban đầu và rất là khó chịu.
Để mặc định như hình. Khi mở Lightroom Catalog bạn đang làm dang dở có thể mở lên
ngay và nếu bạn xài Catalog đó nhiều thì nó cũng hiện ngay. Nếu không thích, bạn có thể
chọn tuỳ chọn hỏi Catalog cần xài khi vào Lightroom hay chọn đích danh Catalog muốn
Lightroom load.
Âm báo khi Import/Export xong. Nếu bạn không thích ồn ào thì chọn No Sound. Nhưng
nếu bạn không có vấn đề gì thì nên chọn âm thanh vì khi Import/Export thanh trạng thái
khá khó thấy và nhiều khi bạn cũng chả để ý.
2. Tab Presets
Bỏ chọn hai ô đầu vì thật sự bạn không muốn Lightroom lại lanh chanh đi chỉnh sửa hình
dùm bạn dù bạn không muốn hoặc không thích.
Nơi lưu các preset bao gồm Develop, Print, Keyword… nút Show Lightroom Presets Folder.
Ô tuỳ chọn “Store presets with catalog” sẽ lưu các preset với Catalog đang làm việc. Các
catalog khác sẽ không có các preset này. Nếu bạn có một Catalog với các thiết lập riêng cho
mình nó thì stick ô này, nếu không thì hãy bỏ chọn.
Theo như dòng trạng thái, không gian màu tốt nhất và được đề nghị chọn cho Lightroom là
ProPhoto RGB vì mức độ hiển thị chi tiết màu là tốt nhất. Và vì thế ta cũng sẽ chọn y thế với
định dạng PSD cho Photoshop. Độ sâu màu nên chọn 16 bits/component để có chất lượng tốt
nhất nhưng với điều kiện bạn đừng có sử dụng quá nhiều hiệu ứng hay plugin. Độ phân giải, để
ở 300 để chắc chắn rằng tất cả các bản in sẽ hiển thị chi tiết tuyệt vời cho hầu hết các máy in
khoảng 240-300 DPI (một số thậm chí cao hơn).
Chọn ô này để ảnh sau khi chỉnh sửa từ Photoshop hay các chương trình khác sẽ stack chung
ảnh gốc. Mình nghĩ là nên chọn vì mục đích dễ quản lý và gọn giao diện làm việc.
Đặt tên cho file chỉnh sửa từ chương trình khác. Cái này tuỳ ý bạn nhé.
5. Tab Interface
Mặc định
Mặc định. Đây là nơi tuỳ chỉnh khi ta nhấn phím L để làm tối màn hình.
Chọn mặc định Fill Color. “Medium Gray” sẽ cho ta cái nhìn đúng về độ sáng của ảnh.
Với “White”, ảnh có thể sẽ bị ta nhìn ra quá tối khi nền làm việc là màu trắng sáng. Dĩ
nhiên với “Black”, ta lại có cái nhìn quá sáng. Màu xám trung hoà hơn, cho ta cai nhìn
đúng hơn và tự nhiên hơn về ánh sáng. Texture chọn hay không là tuỳ bạn, chọn
Pinstripes sẽ tạo ra các đường ngang ở nền làm việc.
1. Chọn ảnh muốn chỉnh sửa trong Photoshop menu Photo Edit in Edit in
Adobe Photoshop “phiên bản” (Ctrl + E)
Edit a Copy with Lightroom Adjustments: chỉnh sửa bản copy với các thiết lập từ
Lightroom sẽ tạo ra file PSD mà không phải JPEG (nếu không mình chọn rồi)
Edit a Copy: chỉnh sửa với bản sao của ảnh tạo ra thêm 1 file jpeg từ ảnh gốc và làm
việc trên ảnh sao chép (các thiết lập từ Lightroom sẽ không hiển thị)
3. Chọn xong thì bấm nút Edit Photoshop sẽ mở ảnh lên và bạn có thể làm việc với
ảnh đó.
Với 3 tuỳ chọn sau thì phải chọn nhiều ảnh mới thực thi được. Chọn 1 ảnh thì chỉ lệnh đầu thực
thi được. Yêu cầu của các lệnh là có Photoshop CS 3 trở lên. Riêng lệnh Merge to HDR in
Photoshop cần phải cần thêm Camera Raw đi kèm Photoshop.
1. Chọn ảnh và vào menu Photo Edit Edit in Color Efex Pro 4.exe (Ctrl + Alt+ E)
2. Vẫn hộp thoại cũ. Nếu như chọn 2 tuỳ chọn sau thì bình thường. Với tuỳ chọn đầu thì ảnh
được nhân ra sẽ ở dạng TIFF khi không tuỳ chỉnh ở Preferences (Lightroom tự động)
hoặc PSD hay JPEG nếu như chọn từ Preferences. Nên chọn trong tab External Editing
định dạng file TIFF cho các chương trình không hỗ trợ PSD thay vì JPEG với lí do TIFF
hỗ trợ độ sâu màu 16 còn JPEG chỉ ở mức 8 thôi.
Làm mới bộ nhớ trong máy tính của bạn bằng cách khởi động lại Lightroom là điều đầu
tiên để thử, và làm giảm nhiều vấn đề làm chậm tốc độ làm việc.
Cập nhật phiên bản mới (nếu bạn xài HĐH mới hơn XP)
Phần cứng
2GB RAM là tối thiểu nếu có 4GB thì tốt. Nếu có ít hơn 1GB nên xài phiên bản 3.6.
Nếu ổ đĩa chứa Catalog đang quá tải thì hãy chuyển toàn bộ Catalog qua ổ khác trống
hơn.
Bạn vào nơi chứa Catalog (mặc định là My Pictures thư mục Lightroom) cắt thư
mục tên Catalog (thư mục gồm file .lrcat + thư mục con chứa ảnh xem trước) và dán qua
nơi mới.
Vào Lightroom menu File Open Catalog chỉ đến nơi chứa Catalog mới chuyển
chọn file “tên Catalog”.lrcat chờ Lightroom khởi động lại.
Trong Photoshop, hãy mở menu Edit Preferences Performance để xem lượng RAM
mà Photoshop được phép sử dụng. Sau dó tắt Photoshop, mở Lightroom menu Help
System Info và xem Lightroom chiếm nhiêu RAM. Cộng hai số này lại và xem thử
bao nhiêu, nếu nó sít sao bộ nhớ RAM của bạn thì hãy nâng cấp RAM nếu muốn xài cả
hai mượt mà.
Spot Removal thì bạn đã biết là Clone và Heal, Local Corrections là Graduated Filter và
Adjustment Brush. Khi ảnh của bạn có quá nhiều thứ phải chỉnh sửa như xoá nhiều chi
tiết, đổi màu nhiều thành phần… Hãy sử dụng Photoshop thay vì Lightroom. Nếu bạn sử
sụng nhiều Spot Removal + Local Corrections sẽ dẫn đến Lightroom bị chậm đi và hiển
thị sẽ lag.
Điều thứ hai là nhiều quá sẽ làm dài danh sách History. History là không giới hạn nhưng
nó cũng sẽ làm chậm Lightroom khi quá nhiều chỉnh sửa vì nó phải ghi lại quá nhiều
thông số. Hãy dọn dẹp panel History bằng cách nhấn Clear All.
Hãy dùng Graduated Filter và Adjustment Brush trong một lần. Chắc chắn xong hoàn
toàn và nhấn Done. Vì khi thay đổi sẽ dùng tới bộ nhớ và ảnh hưởng đến Lightroom.
Với các thanh trượt trong Graduated Filter và Adjustment Brush, cái nào không xài thì để
0 hoặc set mặc định. Tương tự với các thanh trượt ở các panel khác.
Hạn chế dùng các chỉnh sửa không cần thiết về Noise Reduction, Sharpening hay Lens
Corrections vì chúng có sử dụng bộ nhớ để xử lý.
Xem ảnh tuỳ chọn zoom Fit hay Fill sẽ chậm hơn khi xem ở tuỳ chọn 1:2, 1:3 hay 1:4.
Nếu có driver mới hãy cập nhật để tăng hiệu năng làm việc của card.
5. Panel Effects
6. Graduated Filter (M) chỉnh Exposure = -0.8 các thông số khác mặc định (có thể
tuỳ chỉnh theo ý bạn nhưng phải là giá trị âm) kéo trên và dưới ảnh. Có thể dùng
thêm phím Shift để cố định hướng kéo thẳng đứng.
7. Dùng Adjustment Brush (K) chỉnh thông số Exposure = -0.5 và tô viền xung quanh
ảnh. (bước này có thể không cần nếu bạn cảm thấy ảnh đã đủ độ tối xung quanh)
6. Dùng Graduated Filter (M) và kéo theo hình với thông số duy nhất là
Exposure. Mục đích là làm tối xung quanh để ánh sáng hắt trên mặt nước trở
nên nổi bật.
Exposure = - 0.5
B1: Mở ảnh muốn lấy làm cover. Ở đây mình dùng ảnh này.
B2: Lên màu + retouch tuỳ ý cho ảnh. Sau đó, vào công cụ Crop Overlay (R) Aspect
Enter Custom 2.7 x 1
B4: Vào module Print và chỉnh 3 mục theo hình, Các mục khác để nguyên mặc định
B6: Thêm dòng chữ khác bằng Watermarking. Bạn có thể vào chọn Edit Watermarks và
tuỳ chỉnh các thông số cho chữ.
Watermark không di
chuyển tự do mà cố định
tại các vị trí neo sẵn
Sau đó chọn nút “Print to File” chọn nơi lưu bản in này.
B8: GIờ có 2 hướng cho ai lười và siêng. Nếu lười thì chỉ cần lên FB đổi cover, chỉnh vị
trí lại là xong. Còn siêng, Import bản in vừa xuất Crop lấy phần ảnh để xoá bỏ nền
giấy trắng. Bên siêng có cái lợi là có thể thêm chữ bằng Indentity Plate lần nữa. Lúc ấy
bạn sẽ lặp lại B8 này lần nữa.
Dành cho ai siêng: Khi crop, hãy chọn mục Aspect như hình để có thể crop được ảnh:
*** Nếu thấy màu sắc bản in hơi khác trong Lightroom thì đừng lo nhé vì để lên FB là sẽ
như màu trong Lightroom, còn in mới có màu hơi khác đó ***
Tuỳ chỉnh ở đây của mình sẽ là tuỳ chỉnh về Identity Plate (dấu nhận dạng) của
Lightroom và Panel End Mark (đánh dấu hết Panel). Đây là hai phần tuỳ chỉnh cho vui
vẻ, mang lại cho Lightroom cái riêng của mình mà không phải ai cũng có. Mình sẽ hướng
dẫn đơn giản và dễ hiểu ngay sau đây.
4. Vào Lightroom, thu nhỏ các panel con để thấy được phần trống bên dưới chuột
phải Panel End Mark bạn sẽ thấy tên file ảnh của mình đã chép chọn nó và
xem kết quả.
Mình sẽ nói qua việc áp dụng Split Toning cho ảnh trắng đen với mục đích tạo một thứ gì
đó lạ lẫm và đầy ấn tượng.
Giờ ta sẽ dùng ảnh trắng đen để làm việc. Ở đây, mình bỏ qua bước chuyển ảnh màu
thành trắng đen.
Mình sẽ nói các thông số mình chỉnh cho ảnh trắng đen ban đầu trở nên có chiều sâu hơn
tí.
Các bạn thấy rõ sự thay đổi với ảnh trắng đen khi giờ đây ảnh có một tông màu lãng mạn
và trở nên sống động.
Chỉ đơn giản thế thôi nhưng bức ảnh đen trắng lại trở nên đầy ấn tượng với màu sắc dựa
trên nền đen trắng có sẵn. Bức ảnh không bị mất đi nét tương phản của ảnh trắng đen mà
còn thêm màu sắc lạ lẫm cho phong cách này.
7. Với các ảnh không có được sự focus vào chủ thể để tăng chiều sâu của phong cách
này, có thể dùng Graduated Filter với thông số Clarity + Sharpness = -100 và làm như
bài Fake Tilt-shift đã hướng dẫn.
Export ảnh của Lightroom hỗ trợ khá tốt cho việc xuất ảnh để in và cho web với các thiết lập gần
như là đầy đủ. Bạn hoàn toàn có thể in ra những tấm hình mong muốn hay xuất bản lên
Web mà không lo chất lượng giảm hoặc dung lượng ảnh quá lớn. Mình sẽ nói qua cho các bạn
các thiết lập đơn giản để xuất ảnh cho in hay web.
In ấn ta sẽ in với kích thước tốt nhất nên ta không cần giới hạn kích thước. Nhớ chỉnh Resolution
thành 300 vì đây là mức tối thiểu để ảnh được in tốt nhất trên các máy in thông thường.
Ảnh in sẽ không cần giới hạn chất lượng ảnh nên Quality để 100. Hệ màu chọn sRGB vì lí do
máy in có những mảng màu không in được như ảnh hiển thị mà sRGB lại không hiển thị đủ mảng
màu như ProPhoto RGB.
Làm nét khi xuất ra. Ta không muốn tác động quá nhiều lên ảnh trước khi in nên ta sẽ chọn
Amount là Low. Trong khi đó, ta chọ Matter Paper hay Glossy Paper cho mục Sharpen For để
Lightroom làm nét phù hợp cho ảnh.
Ta quan tâm mục Quality. Vì dùng cho web nên ta chọn chất lượng kém đi một chút nhưng
không quá tệ mình để ở 75. Limit File Size To: bạn có thể dùng nếu up ảnh lên host ảnh có
giới hạn dung lượng hay vì mục đích cá nhân.
Ta sẽ ép ảnh có kích thước tối đa là dài 800px để hiển thị trên hầu hết các màn hình máy tính.
Resolution vẫn chọn 300 cho chất lượng ảnh tốt nhất mà không làm tăng dung lượng ảnh.
Ta có thể chèn Watermark cho ảnh để đóng dấu bản quyền cho ảnh khi đưa lên web.
Kết quả so sánh giữa ảnh gốc và ảnh xuất về dung lượng – kích thước
1. Mở ảnh lên và bắt tay vào làm. Ảnh mình dùng ở trên nhé.
5. Dùng Brush Adjustment (K) với thông số như hình và tô lên những khu vực chủ thể
của hinh.
6. Dùng Graduated Filter (M) để làm tối trên và dưới ảnh, hướng ánh sáng vào chủ thể.
Tạo màu sắc và tương phản cho ảnh chụp mặt trời mọc/lặn
Đã có bài hướng dẫn về việc lên màu cho ánh sáng phản chiếu mặt trời phản chiếu trên
mặt nước. Giờ mình sẽ hướng dẫn làm ảnh chụp mặt trời mọ hay lặn có màu sắc và độ
tương phản hơn ảnh ban đầu.
5. Dùng Graduated Filter (M) với thông số bên dưới để làm một tí nơi cuối vệt
nước.
1. Mở ành lên. Ảnh tốt nhất là chụp chủ thể rõ ràng, cự li gần vì ta cần mắt chủ thể rõ
ràng và chi tiết để làm việc. (Stock trên VDS – cảm ơn bạn nào đã chia sẻ stock)
2. Ta sẽ phóng to ảnh và làm việc với vùng mắt của đối tượng. Bạn có thể dùng phím tắt
Ctrl và dấu + để phóng to hoặc dùng Navigator như trong 10 thủ thuật đầu ebook.
4. Bước này mình sẽ lưu lại thiết lập Brush cho lần sau. Chọn từ mene kế bên chữ
Efffect dòng “Save Current Settings as New Preset” Đặt tên cho Brush từ hộp
thoại.
2. Dùng Adjustment Brush (K) với thông số như sau để tăng độ tương phản.
3. Chuyển qua Erase bằng cách nhấn giữ Alt và chỉnh lại các thông số sau. Sau đó xoá
các rìa dư ra khỏi mắt do tô brush.
5. Lưu lại brush nếu bạn cần cho lần sau. Tô lên 2 điểm đánh dấu trong hình.
1. Có lẽ bước này nhàm nhưng mình cũng phải nói ^^. Bạn cần ảnh đen trắng để tạo
hiệu ứng.
4. Bước cuối vào panel Effect để thêm hiệu ứng hạt cho ảnh.
1. Nếu ảnh chỉ có chủ thể không phải người + không có thêm trời như ảnh chụp đồ vật –
con vật… trong nhà, bóng râm hay ngược sáng thì chỉ cần 4 bước sau:
• Panel Tone Curve: bổ trợ Basic cho ảnh có ánh sáng hài hoà giữa vùng sáng và tối.
• Panel Lens Corrections Manual Lens Vignetting: làm sáng xung quanh ảnh
• Panel Detail: Làm nét lại chủ thể và giảm hạt do quá trình tinh chỉnh nãy giờ.
2. Nếu ảnh có liên quan tới người, có thêm trời thì ta sẽ dùng Adjustment Brush (K) để
xử lý như sau:
• Trong ảnh này mình sẽ xoá rác ngay góc phải dưới cùng của ảnh bằng Spot Removal (Q)
Như vậy, nếu Flow = 100% thì mỗi nét vẽ của bạn sẽ có độ đậm 100%. Nếu Flow = 50% thì nét
vẽ đầu tiên sẽ có độ đậm 50%, đến nét vẽ thứ hai cùng khu vực thì nét vẽ sẽ thêm 50% độ đậm
để tổng hai nét vẽ = 100%.
Nếu ta để Flow = 20% thì ta cần vẽ hơn 4 lần trong cùng chỗ đó để đạt 100%.
Vì vậy, Flow làm việc dựa trên mức độ đậm cho mỗi lần bạn thêm một nét vẽ trên cùng khu vực
ảnh tới khi bạn đạt con số 100%.
Density
Trong khi đó thanh trượt Density là mức độ cao nhất mà độ đậm của cọ vẽ sẽ tô lên ảnh. Nó
không quan trọng bao nhiêu lần bạn tô, nó chỉ quan tâm bao nhiên độ đậm trên khu vực được tô.
Như vậy nếu bạn để Density = 50% thì mọi nét vẽ của bạn đều có mức độ đậm 50% như nhau.
Ví dụ, Flow = 100% và Density = 50%, một nét vẽ sẽ cho bạn mức độ đậm là 50%. Trong khi
đó, hai cái đều 100% thì một nét vẽ sẽ cho mức độ đậm là 100%.
Flow = 100%
Flow = 100%
Density = 100%
Density = 50%
Kết quả = 100%
Kết quả = 50%
Nếu Flow = 50% và Density = 100% thì bạn cần tô hai nét để đạt 100% độ đậm. Nhưng nếu bạn
có hai cái đều bằng 50% thì nét đầu tiên sẽ là 25% độ đậm – nghĩa là bằng một nửa 50%
Density.
Từ đó, bạn có thể xây dựng opacity (mức độ đậm) với nét tiếp theo, nhưng opacity tối đa chỉ lên
đến 50%. Điều này là bởi vì Density giới hạn opacity tối đa 50%.
Density = 50%
• Với việc tìm hiểu về Flow và Density có thể cho phép bạn kiểm soát việc dùng brush để
tô trong từng hoàn cảnh, từng tấm ảnh và mục đích của bạn.
Trong Photoshop, có mục Fade cho hiệu ứng nhằm gia giảm cho vừa mắt thì bên Lightroom lại
không có chức năng này cho các preset Develop. Vâng, vì thế một plugin đã ra đời bổ sung chức
năng này cho Lightroom. Đó là plugin “The Fader” của Jarno Heikkinen.
Mình bỗng chợt loé ý tưởng như Edison ngày nào. Mình có thể chuyển preset của mình qua
preset mặc định của Lightroom không? Có thể sẽ qua mặt được cái plugin này chăng? Mình đi
lục tung cái Lightroom tìm ra nơi lưu đống preset mặc định nhưng Adobe chơi hiểm quá ^^.
Vô tình mình dùng Google tìm về cái đống preset mặc định thì gặp trúng bài này:
http://www.pixiq.com/article/getting-rid-of-default-lightroom-develop-presets
Bài viết của Sean McCormarck về vấn đề xoá preset mặc định của Lightroom bằng cách khai
thác file Develop.lrmodule. Chính bài viết này gợi cho mình hướng đi mình đã nghĩ ra và sau
thời gian mày mò mình đã thành công.
Trước tiên, bạn hãy down plugin “The Fader” từ trang web:
http://www.capturemonkey.com/thefader-r768
Bản mới này thêm chức năng lựa chọn các thông số muốn fade trong
preset. Tuy nhiên, bản shareware lại khoá chức năng này và mình nói luôn
thế thì chẳng khác gì bản cũ mà full hay chưa full ^^.
Vào Lightroom menu File Plug-in Manager (Ctrl + Alt + Shift + ,) Add chọn thư
mục “TheFader.lrplugin”.
Bạn sẽ thấy plugin được thêm vào với thông tin bên phải Done
Bạn download phần mềm này dùng cho Windows Vista/7: Resource Tuner
http://www.mediafire.com/?r1491r90l4lrue9
Phiên bản dùng thử 30 ngày nhé các bạn nhưng mình nghĩ là đủ rồi.
Bạn dùng Windows XP thì dùng phần mềm này: XN Resource Editor
http://www.wilsonc.demon.co.uk/d10resourceeditor.htm
Đây là bản miễn phí. Lúc đầu, theo tác giả bản này không dùng được trên
Windows 7 nhưng mình cài thử thì ok ^^.
1. Mình sẽ dùng Resource Tuner. Cách làm với XN Resource Editor là tương tự
3. Ctrl + O để mở file tìm đến nơi cài Lightroom chọn file Develop.lrmodule (hãy
copy file này ra một nơi khác nhé để khi nào gặp trục trặc thì chép đè lại)
5. Với các file bắt đầu bằng “LOCALIZED” ta không quan tâm vì đây là preset của
Adjustment Brush (K). Nhìn xuống sẽ thấy các preset mặc định được đặt trong các
thư mục tương ứng trong Lightroom.
Tuyệt đối không đụng chạm các dòng khác nếu không sẽ không thấy
preset nữa đâu ^^.
9. Các bạn sẽ sao chép các thông số từ preset của bạn vào các thông số của preset mặc
định (bạn cần ghi lại các thông số preset của bạn để sửa trong bước này).
• Với các thông số trong panel Basic như: Black, Highlight, Exposure, Contrast, Clarity,
Shadows, White, Saturation, Vibrance bạn sẽ tìm thấy nó nằm lung tung đâu đó với
tên y chang thế nên chịu khó tí nhé. (nếu bạn xài Lightroom 4 sẽ thấy các tên thông số đi
kèo 2012 2012 là phiên bản xử lý mà Lightroom dùng.)
Blacks2012 = -5,
Clarity2012 = 50,
Contrast2012 = 50,
Saturation = 5,
Shadows2012 = 10,
Vibrance = 5,
Whites2012 = 10,
Exposure2012 = 0.05,
Highlights2012 = -5,
• Với các dòng Enable + tên panel sẽ có hai giá trị true/false tương ứng cho phép bật mở
các thông số thuộc mục này bạn hãy để ý vì nếu ở false thì mọi tinh chỉnh các thông số
thuộc panel là vô ích. ConvertToGrayscale cũng có giá trị true/false dòng này nếu để
true ảnh bạn sẽ thành trắng đen.
ConvertToGrayscale = false,
EnableCalibration = true,
EnableColorAdjustments = true,
EnableDetail = true,
EnableEffects = true,
EnableSplitToning = true,
• Với panel Tone Curve ta sẽ thay đổi các dòng sau ứng với các thông số trong preset của
mình. Với dòng ToneCurveName2012 = "Linear", hãy đảm bản tên trong “ “ là linear vì ở
chế độ này ta mới thể tuỳ ý thay đổi curve trên thông số mặc định.
ParametricDarks = -28,
ParametricHighlightSplit = 0,
ParametricHighlights = 0,
ParametricLights = 30,
ParametricMidtoneSplit = 0,
ParametricShadowSplit = 0,
ParametricShadows = 0,
Trong đó các dòng Parametric + Darks,Highlights, Lights và Shadows tương ứng các thông số
này:
Chọn Linear rồi mới chỉnh cureve để lấy được giá trị
Các con chạy này qui định phạm vi của các vùng hiểu theo nghĩa khác là nó chia cắt từng vùng
ra
Nếu bạn không muốn làm nét chỉ cần cho Sharpness = 0 là được
PostCropVignetteAmount = 0,
PostCropVignetteFeather = 50,
PostCropVignetteHighlightContrast = 0,
PostCropVignetteMidpoint = 50,
PostCropVignetteRoundness = 0,
PostCropVignetteStyle = 1,
GrainAmount = 0,
GrainFrequency = 50,
GrainSize = 25,
• Trong mục Basic còn có hai thông số Temperature và Tint nhưng mình lại không nhắc
đến khi nói về panel này. Lý do là hai thông số này có sự khác nhau giữa ảnh RAW và
ảnh JPEG: nếu như Temp bên ảnh RAW dùng thang độ K (Kelvin) thì ảnh JPEG lại dùng
thang 100. Lightroom mặc định các preset cho ảnh RAW nên giá trị thông số trong preset
là độ K và có khác biệt với JPEG mình sẽ giúp các bạn chuyển qua độ K và thang 100.
Temperature = 12500,
Tint = 35,
Hai dòng thông số chúng ta cần chỉnh
Giờ mình sẽ làm bảng so sánh giữa thông số Temp và Tint bên RAW và bên JPEG để bạn thay
đổi cho phù hợp.
Tint
RAW JPEG
-8 -19
-9 -20
-20 -30
-30 -38
-32 -39
-34 -41
-33 -40
-60 -57
-100 -78
-150 (min) -100 (min)
150 (max) 100 (max)
20 12
50 39
2 -9
9 -1
-1 -12
0 -11
Bảng này không đầy đủ nhưng cho bạn cái nhìn về sự tương quan giữa hai định dạng ảnh khi
thay đổi hai giá trị bạn có thể thay đổi theo ý thích và cần có sự thử nghiệm để đạt được kết
quả ưng ý nhất. Để làm được việc này bạn cần thay đổi các giá trị ở hai dòng rồi lưu lại, mở
Lightroom xem và lại quay lại tiếp tục chỉnh sửa.
Các dòng xếp theo thứ tự ABC và bạn phải tuân theo nó. Nếu preset bạn chọn sửa thiếu dòng
nào, bạn có thể tham khảo các preset khác trong cây thư mục để tìm ra cú pháp dòng đó thêm
vào theo thứ tự ABC.
Bạn nhập giá trị dương không thêm dấu + (ví dụ nhập “3” không nhập “+3”) với giá trị âm thì
thêm dấu trừ. Cuối dòng phải có dấu “,” – không là dòng đó vô nghĩa.
Bạn chỉnh sửa một preset xong có thể copy toàn bộ cấu trúc đã quy định được sửa qua preset
khác để cho nhanh (xoá các dòng bên preset kia trước).
Nếu preset bạn sửa có các dòng Auto + “tên” thì hãy đặt giá trị false hết.
8. Hãy nhấn nút OK sau khi đã chắc chắc hoàn thành. Một hộp thoại sẽ hỏi bạn có muốn
tiếp tục thực hiện quá trình không YES để lưu lại.
9. Tại cửa sổ chính của chương trình chọn biểu tượng Save File As…
Ví dụ minh hoạ
1. Mình có preset như sau:
2. Mình không thể xài The Fader được cho preset này.
Original Fake
7. Kết quả là khá tốt. Nhưng giờ đây ta đã có thể xài The Fader với preset nhái này rồi.
100%
50%
(original)
20% 120%
9. Như vậy là đã xong cái bí mật này rồi. Phù nói thật là phần này làm mình tốn nhiều
chất xám và thời gian nhất. Nhưng thấy thành quả thì ôi thôi sung sướng muôn phần.
Các bạn cũng hãy cố gắng và chịu khó tí nhé ^^.
4. Mở mail lên bạn sẽ nhận được thư với tiêu đề “onOne Software Download” nhấn
chọ hệ điều hành đang xài và đợi download về máy.
9. Đặc biệt là nút Options khi cho phép ta tuỳ chỉnh layer hiệu ứng như Blending
Options, vùng ảnh hưởng và bảo vệ vùng nào tránh bị ảnh hưởng.
•
Khi chọn nhiều tấm sau đó muốn bỏ chọn và chọn các tấm còn lại chưa được chọn thì
vào menu Edit Invert Selection.
• Dùng menu Edit và các lệnh chọn theo thuộc tính để chọn các ảnh được gắn Flag, Label
và Rating.
• Nhấn giữ cùng lúc Ctrl + Shift và chọn ảnh sẽ cho ta cùng lúc hai cách chọn: chọn một
loạt ảnh nằm cùng nhau hay nằm rải rác.
• Ta có thể dùng các phím mũi tên để duyệt ảnh. Phím Home để về ảnh đầu và End để tới
ảnh cuối. Phím PgUp hay PgDn để nhảy một trang ảnh đang hiển thị.
Color Splash
Hiệu ứng ảnh này sẽ làm chủ thể nổi bật với nền bằng sự tương phản giữa màu sắc và trắng đen.
Ảnh với hiệu ứng này thường mang lại cái nhìn tập trung ngay vào chủ thể và bỏ qua nền vì mắt
ta có xu hướng ưa màu sắc. Màu càng nổi, càng rực rỡ thì càng thu hút ánh nhìn và mang lại kết
quả cao cho hiệu ứng ảnh. Mình sẽ hướng dẫn các bạn cách làm hiệu ứng này với Lightroom
thông qua công cụ Adjustment Brush (K)
1. Chúng ta sẽ mở ảnh lên. Ảnh nên có sự tương quan giữa nền và chủ thể để hiệu ứng
đạt kết quả cao, đồng thời màu sắc chủ thể phải sáng và rực để thu hút sự tập trung
vào ảnh. Ở đây mình sẽ dùng ảnh này là stock chia sẻ trên VDS (xin chân thành cảm
ơn bạn nào đã chia sẻ stock)
Thông số quyết định ở đây là Saturation. Kéo về -100 để giảm màu sắc ảnh đưa về ảnh
đơn sắc. Ở đây là nền
3. Tiếp tục dùng Brush với thông số sau tô lên da mẫu nhằm làm sáng và làm mịn da.
4. Dùng Brush với thông số sau để làm tóc trở nên ấm màu hơn
5. Dùng Brush với preset có sẵn là Iris Enhance và tô hai mắt để tăng độ nét và chiều sâu mắt.
7. Dùng Brush với preset có sẵn Teeth Whitening để tô lên răng mẫu.
Ebook tập 2 hơn hẳn tập 1 về số trang khi lần này con số là 180 trang nhưng nội dung vẫn
là dành cho newbie, vẫn hình ảnh đầy đủ để các bạn không quá khó hiểu. Mong rằng
ebook lần này là món quà Tết có ý nghĩa với các bạn, mong các bạn sẽ thích và ủng hộ
mình. Niềm vui các bạn là hạnh phúc của mình rồi ^^.
Chúc mọi người năm mới vui vẻ, mạnh khoẻ, học hành tấn tới – làm ăn tấn tài, vọc nhiều
điều hay – học thêm điều mới. Mình xin kết ebook bằng link download những preset sưu
tầm + của mình.
Link download
http://www.mediafire.com/?s39auy1al7d2bn9
Amigen